Thứ Bảy, 23 tháng 7, 2016

2 bài văn bia do đích thân vua Minh Mạng viết về sông Ngự Hà và cầu Khánh Ninh

Sau 1 thời gian nghiên cứu và triển khai trùng tu, cho tới hiện tại Dự án trùng tu bình phục 2 nhà bia bảo kê 2 tấm bia:“Ngự chế Ngự Hà bi ký” và “Ngự chế Khánh Ninh kiều bi ký”đã hoàn thành. Hoạt động tu tạo này tuy với quy mô không to, nhưng mô tả phần nào được loại tâm cùng sự nỗ lực của những người làm thuê tác bảo tàng thuộc trọng tâm bảo tàng Di tích Cố đô Huế đối mang các trị giá di sản do tiền nhân để lại.
Theo những tư liệu lịch sử, “Ngự chế Ngự Hà bi ký”và “Ngự chế Khánh Ninh kiều bi ký” là 2 bài văn bia do đích thân vua Minh Mạng viết về sông Ngự Hà và cầu Khánh Ninh. Mỗi văn bia được khắc trên bia đá có nội dung khác nhau, nhưng đầy đủ đều nói đến nguyên do và ích lợi của sông Ngự Hà và cầu Khánh Ninh cũng các cây cầu khác trên con sông này đối có người dân trong việc chuyển động trong khu vực kinh kì.
Cầu Khánh Ninh và nhà bia
Ngự Hà là một con sông máng hình thức thợ, khởi nguồn trong khoảng một phần của con sông cũ chảy từ mặt Tây qua Đông của đế đô Huế. Cụ thể hơn, Ngự Hà được đào theo 1 nhánh cũ của sông Hương chảy trong khoảng chợ Kim Long đến Bao Vinh để thuận lợi cho việc chuyên chở hàng hóa ra vào kinh kì Huế. Khoảng năm Ất Sửu (1805) dưới triều vua Gia Long, sông được khơi đào từ sông Đông Ba đến Võ khố, đi ngang qua Kinh Thương (kho lúa của triều đình), và được đặt tên là sông Thanh Câu. Vào năm Ất Dậu (1825) dưới triều vua Minh Mạng, sông được đào tiếp nối tới sông Kẻ Vạn và đổi thành Ngự Hà (Sông Vua). Qua 2 lần đào, Ngự Hà trở nên cái sông chảy xuyên qua giữa lòng kinh thành với chiều dài tổng cùng là 3.700m, rộng trong khoảng 44 đến 85m, nối liền sông Kẻ Vạn mang sông Đông Ba, được xem là trục cảnh quan, tiêu thoát nước, trục liên lạc chủ đạo của khu vực kinh kì Huế thời bấy giờ.
Hệ thống cầu cống gắn liền sở hữu Ngự Hà (từ Đông qua Tây) gồm: cầu Hàm Tế, cầu Đông Thành Thủy Quan (công Lương Y), cầu Ngự Hà (cầu Kho), cầu Khánh Ninh (cống Hắc Báo), cầu Vĩnh Lợi, cống Tây Thành Thủy Quan và cầu Thủy Quan. hiện giờ, phần nhiều các cầu cống này (được xây bằng gạch vồ ở phần dưới và ốp đá Thanh ở thân và lan can cầu) vẫn còn tương đối nguyên vẹn; ngoại trừ có cầu Bình và cầu Son đã từng tồn tại, nhưng sau này đã bị triệt giải do không còn sử dụng nữa.
Nhà bia cầu Khánh Ninh
Trong các năm cách đây không lâu, sau khi UNESCO công nhận Quần thể Di tích Cố đô Huế là Di sản Văn hóa Thế giới; trong Đó với hệ thống Ngự Hà, rộng rãi dự án kiến trúc-lịch sử của triều Nguyễn đã được Chính phủ và chính quyền địa phương đầu tư trùng tu và tái thiết sở hữu mong muốn phục nguyên các giá trị đặc sắc của một kinh thành lịch sử; trong ngừng thi côngĐây, Ngự Hà và hệ thống cầu cống cũng được để ý sửa sang, chỉnh trang. trong tương lai, Ngự Hà vẫn sẽ đóng vai trò là hệ thống điều hòa nước tình cờ, tạo sự cân bằng về sinh thái trong khu vực kinh thành, song song tiếp diễn được tu sửa chỉnh trang để trở thành một tuyến du hý bằng thuyền trên sông và đi bộ dọc theo dòng chảy để giúp du khách khám phá vẻ đẹp của 1 chiếc “ sông Vua” 1 thời và trải nghiệm các hoạt động hàng ngày của cư dân Thành Nội.
Trong khuôn khổ bài giới thiệu ngắn này, chúng tôi mong muốn gửi tới cùng đồng và du khách những thông tin cơ bản về Ngự Hà cộng nội dung của bài văn bia do đích thân Vua Minh Mạng soạn vào ngày mồng một tháng 10 năm Minh Mạng thứ 17 trên hai tấm bia đá vừa được trùng tu phục hồi hai nhà che bia.
Nguyên văn nội dung hai bài văn bia này được dịch nghĩa như sau:
1. Bài văn bia viết về sông Ngự Hà
Sông này nguyên trước đây là 1 nhánh của sông Hương.
Sau lúc vua cha là Cao Hoàng đế vượt qua mọi trở ngại để lấy lại đất tâm thần, lúc vun đắp kinh đô, đã tùy theo địa vậy mà đào lấp.
Sông bắt đầu từ phía bắc Hoàng thành, ngang qua Võ Khố, vòng vèo lên phía bắc, qua phía đông, lại chuyển về phía nam, quay lại phía đông ra ngoài kinh đô lưu thông mang Hộ Thành Hà. trong khoảng đường cái ở cửa Đông Nam trong Thành Nội qua sông tới con đường loại ở cửa Chánh Bắc, đã từng bắc cầu gỗ để tương hỗ.
tới năm Canh Thìn, Minh Mạng năm thứ nhất, Trẫm nghĩ rằng ở kinh đô quy tụ phổ biến nhà cửa, người và ngựa đi trên đường mẫu đêm ngày, chất gỗ khó còn đó lâu dài, thành ra đổi khiến cho cầu đá, Đó là kế chỉ khiến cho một lần mà được nhàn rỗi trong tương lai.
Bèn sai Bộ Công lấy ngày lành tháng 5 năm ấy khởi đầu khởi công. Trải qua 1 tháng rưỡi thì loại cầu được xây xong. Dưới cầu để ba khoảng trống, trên cầu xây đá thanh, hai bên sở hữu lan can bằng đá để bảo vệ. Mặc khác, vì sông này trước chậm triển khai chưa sở hữu tên, bèn gọi tên là Ngự Hà, bởi thế cũng lấy nó để đặt tên cầu.
tới tháng tư năm Minh Mạng thứ 11, lại thấy ở chỗ Ngự Hà chảy về phía đông ra ngoài đế kinh, nguyên mang dòng cầu gỗ tên là cầu Thanh Long, cũng sai thay bằng đá. Dưới cầu đặt chánh cửa làm cho cửa quan. Trên cầu, ở lan can bảo vệ, trổ ra 13 cửa tiêu dùng để bắn súng đại chưng. Cầu được đổi thành Đông Thành Thủy Quan.
Cầu giúp ích phổ biến cho việc qua lại, thuận lợi cho xe thuyền, lại được phòng bị nghiêm chỉnh, làm kinh đô thêm hùng tráng. Kinh phí tiền nong trước sau đến vài vạn, vẫn ko tiếc nuối. Nay khiến bài ký để khắc vào bia đá.
Sáng sớm ngày mồng 1 tháng 10 năm Minh Mạng thứ 17.
Khánh Ninh Kiều bi ký2. Bài văn bia vua viết về cầu Khánh Ninh
Thời Gia Long đào sông Ngự Hà từ khi Võ Khố tới chỗ ra khỏi phía đông kinh kì, thông mang Hộ Thành Hà. Chỉ ở phần thượng lưu của nó là chưa thông.
Nghĩ kỹ thấy rằng sông này rất dễ dàng cho mọi người trong sự chuyển động để khiến việc công cũng như việc tư. giả dụ ở thượng lưu không thông thì người nào muốn đi về phía tây đế đô cũng gặp sự bất tiện thể. Vả lại, chiếc nước chẳng tiếp nối với đầu nguồn thì ứ đọng đục bẩn, không thể cung ứng cho việc ăn uống và dùng của quân đội và nhân dân.
do đó, vào tháng 6 năm Ất Dậu, năm Minh Mạng thứ 6, bèn đào 1 thủy đạo từ chỗ tắc của con sông, hướng về phía tây, ra khỏi kinh kì, thông có Hộ Thành Hà. khi ngừng thi côngĐây, sông đã thông ghe thuyền, nhưng trên các trục đường cái, người và ngựa chuyển di, chẳng thể không xây cầu để qua sông. Bèn xây cầu đá ở đường chiếc Ngự Hà, dùng cung Khánh Ninh, gần bên trái cầu để đặt tên là cầu Khánh Ninh.
Kế đến, trong khoảng tuyến đường cái cửa Chánh Nam đến con đường cái cửa Tây Bắc, ở chổ qua sông cũng xây 1 cầu đá, tên là cầu Vĩnh Lợi.
Lại ở chỗ phía tây của thành vượt qua sông, thiết lập một cửa quan, trên thì xe pháo qua lại, dưới thì ghe thuyền vào ra, gọi tên là Tây Thành Thủy Quan. Trên tường đặt súng đại bác bỏ, trông càng thêm hùng tráng.
Lại nữa, ở đầu ngoài quách phía tây của thành, cũng xây một cầu đá, gọi là cầu Hoằng Tế.
các cầu và cửa quan ấy, ở dưới đều xây bằng gạch, ở trên thì xây bằng đá. Việc thi công kéo dài tới nửa năm mới hoàn tất, thật là vững chãi.
mặc dầu kinh phí lên đến cả chục vạn, nhưng nào mang nuối tiếc, vì với thể để lại muôn năm, ban ơn cho hàng triệu người, nên cũng chẳng thể ko khiến.
Nay nhớ đến và ghi lại nguyên nhân của con sông và các cầu để uỷ thác cho bia đá.
Sáng sớm ngày mồng 1 tháng 10 năm Minh Mạng thứ 17.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét